“...Pháp thì không muốn trao Độc Lập thực sự cho phe Quốc Gia Việt Nam, ngay cho đến khi sắp thất thủ ở Điện Biên Phủ vẫn ngoan cố không là không . Phe Quốc Gia dưới Bảo Đại thì không có lòng dân, quân đội vẫn do Pháp nắm...”. [Bi Mat Ngu Giac Dai - Phan 2 - Hoa Ky va Viet Nam 1940-1950 - Download PDF].
>Xem sách trên Google Docs hoặc tải về tệp PDF phần 2.
Lời người dịch:
Ngày 19 tháng Ba năm 1945, Nhật lật đổ Pháp [Vichy] giành trọn Đông Dương, đưa Vua Bảo Đại lên làm người đứng đầu nước Việt Nam nằm trong khối Thinh Vượng Chung Đại Đông Á. Bảo Đại tuyên bố Việt Nam Độc Lập và hủy bỏ các Hiệp Ước với Pháp, thống nhất ba miền.
Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Đế quốc Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện. Thế Chiến II chấm dứt.
Ngày 28-8-1945, Bảo Đại thoái vị và trao ấn, kiếm cho Đại diện Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, tuyên bố xoá bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam để lại câu nói lịch sử “Tôi thà làm công dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ” và trở thành Cố Vấn Tối Cao cho chính phủ Hồ Chí Minh.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, ở Hà Nội, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hoàn toàn độc lập.
Năm 1946, Bảo Đại chạy qua Hồng Kông.Ở đó, cựu hoàng bản thân đã được thu hút không chỉ bởi đại diện của Pháp, mà cả VNDCCH, phía nào cũng tìm cách mời ông nhân danh họ mà hành động [thương thuyết] với Pháp. Sau cùng Bảo Đại đã bỏ Việt Minh và chấp nhận đứng đầu một Liên Minh Quốc Gia mới được thành lập và từ đây một thực thể Quốc Gia đối kháng với Cộng Sản thành hình. Đó là bối cảnh Việt Nam từ khi Nhật hất cẳng Pháp, đầu hàng năm 1945 đến 1950 mà một liên minh tay ba: Pháp, Bảo Đại và Mỹ xuất hiện với hai mục đích rõ ràng:
Pháp muốn tái lập chủ quyền thực dân ở Việt Nam, Mỹ muốn ngăn chận bành trướng của Cộng Sản [Trung Quốc] theo chủ thuyết Domino, Bảo Đại thì chỉ muốn làm tay chơi, ai cung phụng cho ông đều tốt cả … Cái thế “tiêu tùng” là ở chỗ đó .
Pháp thì không muốn trao Độc Lập thực sự cho phe Quốc Gia Việt Nam, ngay cho đến khi sắp thất thủ ở Điện Biên Phủ vẫn ngoan cố không là không . Phe Quốc Gia dưới Bảo Đại thì không có lòng dân, quân đội vẫn do Pháp nắm, Bảo Đại thì ù lì gần như không làm gì hết ngoại trừ ăn chơi, hộp đêm, đánh bạc, săn bắn, đua xe. Mỹ thì bị Pháp xỏ mũi dẫn dắt dù rất muốn và đã ép Pháp trao Độc lập hoàn toàn cho Việt Nam để tạo thế mạnh cho phe Quốc Gia chống lại Việt Minh lúc này chỉ gồm toàn là Cộng Sản…
Điện Biên Phủ thất thủ, Pháp đầu hàng, Hội Nghị Geneva kết thúc, Việt Nam hoàn toàn “Độc Lập” và bị chia hai . Miền Bắc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa “Độc Lập” dưới tượng đài Mác-Lê-Mao, miền Nam Việt Nam Công Hòa dưới tượng đài Tự Do mà vai trò là “tiền đồn chống cộng”.
Từ đây hai chữ Quốc Gia và Cộng Sản mang đầy đủ nội hàm thù địch, sinh tử, súng đạn, bom mìn, chém giết và tàn phá …
“Bí mật Ngũ Giác Đài – Phần III” là diễn tiến Hội Nghị Geneva …
Tôi sẽ trở lại sau khi tìm hiểu vì sao ông Ngô Đình Diệm bị lật và bị giết cùng với bào đệ Ngô Đình Nhu trong “Bí mật Ngũ Giác Đài – Phần IV-B-5” ( [Part IV. B. 5.] Evolution of the War. Counterinsurgency: The Overthrow of Ngo Dinh Diem, May-Nov. 1963)
“Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần II:
Tham Gia Vào Chiến Tranh Pháp Việt 1950 - 1954”
II. Hoa Kỳ Tham Gia vào Chiến Tranh Pháp – Việt Minh 1950-1954 (tập 1)
A. Hoa Kỳ, Pháp và chủ nghĩa Dân Tộc Pháp
B. Hướng về một giải pháp thương lượng
Phần II
Hoa Kỳ Tham Gia vào Chiến Tranh Pháp – Việt Minh
1950-1954
Lời nói đầu
Phầnnghiên cứu này về chính sách của Hoa Kỳ về cuộc chiến tranh ở Đông Dương kể từ lúc Hoa Kỳ quyết định công nhận chế độ Việt Nam Quốc Gia của Hoàng đế Bảo Đại vào tháng Hai, 1950, thông qua việc thảo luận về một sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ vào cuối năm 1953 và đầu năm 1954. Mục A xem xét các mối quan hệ tam giác giữa Pháp, Mỹ, và chế độ Bảo Đại. Mục Bphân tích kết quả của sự can thiệp, và các tiền đề cho Hội nghị Geneva.
A. Hoa Kỳ, Pháp và chủ nghĩa quốc gia Việt Nam
B. Tiến tới một giải pháp thương lượng
II. A. HOA KỲ, PHÁP VÀ CHỦ NGHĨA QUỐC GIA VIỆT NAM
TÓM TẮT
Đã có lập luận rằng ngay cả khi Hoa Kỳ bắt đầu hỗ trợ cho người Pháp ở Đông Dương, Hoa Kỳ đãbỏ lỡ cơ hội để mang lại hòa bình, ổn định và độc lập cho Việt Nam. Các vấn đề đã được nêu lên từ niềm tin của một số nhà phê bình rằng (a) Hoa Kỳ đã không cố gắng tìm kiếm và hỗ trợ một giải pháp quốc gia khác ở Việt Nam và (b) Hoa Kỳ chỉ huy, nhưng đã không sử dụng, nhữngthế thượng phong của mình để thúc đẩy Pháp trao trả Độc Lập chân chính cho Việt Nam.
Tài liệu ghi chép lại đã cho thấy cho đến năm 1953,người Pháp theo đuổi một chính sách dựa trên chiến thắng quân sự và đã loại trừ các cuộc đàm phán có ý nghĩa với Hồ Chí Minh. Người Pháp, tuy nhiên, đã công nhận là có đòi hỏi hướng về khát vọng quốc gia Việt Nam, và từ năm 1947 về sau, đã đưa ra "giải pháp Bảo Đại". Những tài liệu này cũng cho thấy thái độ do dự của Hoa Kỳ cho tới 1949 mới thông qua "giải pháp Bảo Đại" [với điều kiện] cho đến khi nào Việt Nam đã được thống nhất trên thực tế và được giao quyền tự chủ và nhất quán hổ trợ việc tạo dựng một chính phủ Việt Nam thực sự độc lập và không cộng sản để thay thế Pháp. Tuy nhiên,sự sụp đổ của Trung Quốc và các tình hình quân sự của Pháp bị xấu đi ở Đông Dương đã đưa đến cả Pháp và Hoa Kỳ đều nhấn vào "giải pháp Bảo Đại."
Đầunăm 1950, sau khi Pháp phê chuẩn Hiệp định Elysée đã trao "Độc lập” choViệt Nam, Hoa Kỳ công nhận Bảo Đại và khởi sự viện trợ kinh tế và quân sự được khởi xướng, ngay trước cả khi việc chuyển giao quyền lực của Chính phủ xảy ra trên thực tế. Sau đó,người Phápchỉ chuyển giao việc kiểm soát trên hình thức, trong khi Hoàng Đế Bảo Đại thì chỉ muốn giữ một vai trò nghĩ hưu và thụ động, và giao chính phủ cho những chính trị gia không uy tín. Chính quyền Bảo Đại không được lòng dân và cũng không hiệu quả, và quân đội của họ, phụ thuộc vào chỉ huy người Pháp, tỏ ra bất lực. Sự bất lực của chế độ Bảo Đại, sự thiếu vắng bất kỳ lựa chọn thay thế nào có thể thấy được (trừ những người cộng sản), sự kiện Pháp tiếp tục nắm quyền và kiểm soát Chính phủ Việt Nam, sự kiện là dường như chỉ có một mình người Pháp là có khả năng ngăn chận cộng sản ở Đông Dương - tất cả những hạn chế đó đã thúc giục Hoa Kỳ [ủng hộ] cho một chính phủ dân chủ-quốc gia ở Việt Nam. (Bảng 1)
[Vì] Cácmối quan hệ Mỹ-Pháp ở châu Âu (NATO, Kế hoạch Marshall, Chương trình Hỗ trợ Lẫn Nhau về Quốc phòng) khiến Hoa Kỳ không mấy mạnh mẽ trong việc đòi hỏi Pháp nhượng bộ cho phía Việt Nam quốc gia. Bất kỳ với chuyện nào kể trên, thế nói chuyện với Pháp [về Đông Dương], Hoa kỳ đêu bị hạn chế bởi những cân nhắc rộng hơn nặng về chính sách ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở châu Âu và châu Á. NATO và Kế hoạch Marshall bản thân chúng được đánh giá là những thiết yếu cho lợi ích của chúng ta ở Châu Âu. Đe dọa trừng phạt kinh tế và quân sự với Pháp ở châu Âu để ép Pháp thay đổi chính sách của họ ởĐông Dương, vìvậy, trở nên không thích đáng. Tương tự như vậy, giảm mức viện trợ quân sự cho các nỗ lực của Pháp ở Đông Dương sẽ là phản tác dụng, vì làm như thế sẽ làm suy giảm hơn nữa vị thế quân sự Pháp ở đó. Nói một cách khác, có một sự đối nghịch cơ bản giữa hai con đường trong chính sách của Mỹ: (1) Washington muốn Pháp chiến đấu và chiến thắng cộng sản, tốt nhất là dưới sự hướng dẫn và tư vấn của Mỹ, và (2) Washington chờ đợi Pháp, sau khi chiến thắng [Thế Chiến] đã được đảm bảo thì nên cao thượng mà rút ra khỏi Đông Dương. Đối với Pháp, cólẽ họ đã chiến đấu trong chiến tranh thuộc địa nhiều hơn là trong chiến tranh chống cộng sản, chắc đã thấy hậu quả của việc rút ra sẽ ảnh hưởng đến các thuộc địa khác như Algeria, Tunisia và Ma Rốc, chuyện cao thượng rút quân chắc là không có khả năng.
Chính sách của Pháp không có những đối khángnhư thế, đã có thể theođuổi cuộc đua thương lượng với một thế mạnh hơn. Malthus, người Pháp đã chống lại áp lực từ Washington và cơ quan MAAG [Military Assistance Advisory Group] ở Sài Gòn là muốn tạo ra một đội quân thật sự Việt Nam, được nhiều tự chủ hơn ở Việt Nam và theo đuổi cuộc chiến tranh có hiệu quả hơn. MAAG bị chuyển xuống thành một cơ quan tiếp liệu và những lời nhắc nhở đôi khi của họ thường được người Pháp diễn giải như nhữngcan thiệp vào công việc nội của họ. Mặc dùcho đến năm 1954, Hoa Kỳ tài trợ 78% của chiến phí, người Pháp vẫn kiểm soát toàn bộ việc bố trí viện trợ quân sự và các công tác tin tức tình báo và việc lập kế hoạch các chiến dịch quân sự. Những kỳ vọng chiến thắng của Pháp trên Việt Minh đã khuyến khích Hoa Kỳ "đồng hành" với Paris cho đến khi chiến tranh kết thúc [1954]. Hơn nữa, Hoa Kỳ miễn cưỡng đối kháng với Pháp bởi vì các ưu tiên trong kế hoạch của Washington là cần sự tham gia của Pháp trong cộng đồng Quốc phòng Châu Âu. Pháp, vì vậy, đã có con chủ bài đáng kể và, trừ khi Hoa Kỳ phải hổ trợ trên các điều kiện của Paris, nếu không Pháp có thể, trên thực tế, Pháp đã thực sự đe dọa không tham gia EDC [Liên minh quốc phòng Âu Châu – European Defense Community] và [đe dọa] ngưng chiến đấu ở Đông Dương. (Tab 2)
Giới học giả và hoạch định chính sách của Hoa Kỳ có khuynh hướng đánh giá cộng sản như một cục nguyên khối. Việt Minh, vì vậy, đã được coi là một phần của Đông Nam Á trong toan tính mở rộng phong trào cộng sản trên toàn thế giới. Mặt khác, việc đối kháng của Pháp với Hồ Chí Minh, lại được cho rằng đó là một việc thiết yếu trong việc ngăn chận cộng sản. Nhận thức về các mối đe dọa chiến lược của cộng sản, hổ trợ bởi nguyên tắc Domino: chỉ cần một quốc gia đơn nhất ở Đông Nam Á bị rơi vào tay cộng sản, thì việc các quốc gia khác trong khu vực rơi sẽ vào vòng kiểm soát của cộng sản là không thể đảo ngược.Thuyết Domino, bắt nguồn có lẽ từ thời điểm mà phe Quốc Gia rút khỏi Đại Lục Trung Quốc, là gốc rễ của chính sách của Mỹ. Mặc dù các yếu tố của thuyết Domino, có thể được tìm thấy trong các giấy tờ NSC [Hội Đồng An Ninh Quốc Gia – National Sesurity Council] trước khi chiến tranh Triều Tiên bắt đầu, sự can thiệp của Trung Quốc vào [chiến tranh Triều Tiên] được cho là một xác nhận đáng ngại về gía trị của lý thuyết này. Khả năng một sự can thiệp quy mô lớn của Trung Quốc ở Đông Dương, tương tự như ở [bán đảo] Triều Tiên, là đáng lo ngại, đặc biệt là sau khi hiệp ước đình chiến ở Triều Tiên [được ký kết].
Chính quyền Eisenhower tiếp nối các chính sách cơ bản của vị tiền nhiệm của mình, cũng là vẫn là tiếp tục đẩy mạnh các cam kết của Hoa Kỳ ngăn chặn [cộng sản] ở châu Á. Bộ Trưởng [Ngoại Giao] Dulles theo đuổi một chính sách thẳng băng và chống cộng đã nói rõ rằng ông sẽ không cho phép "mất” Đông Dương, trong cách thức như phe Dân chủ đã đã làm "mất" Trung Quốc [vào tay cộng sản]. Dulles đã cảnh cáo Trung Hoa [công sản] không được can thiệp, và kêu gọi người Pháp phải hướng tới một chiến thắng quân sự. Dulles chống đối một cuộc ngưng bắn và cố gắng thuyết phục Pháp tránh đàm phán với Việt Minh cho đến chừng nào họ đạt được những cải thiện đáng kể vị thế thương lượng của mình thông qua hành động của họ trên chiến trường. Hội Đồng An Ninh Quốc Gia vào đầu năm 1954 đã được thuyết phục rằng một chế độ liên minh phi cộng sản cuối cùng rồi sẽ giao đất nước cho Việt Minh. Hậu quả là với một chính sách thiên quân sự này, chính phủ Hoa Kỳ có xu hướng tập trung vào khía cạnh quân sự nhiều hơn chính trị trong cuộc chiến giữa Pháp và Việt Minh.. (Tab 3 )
THẢO LUẬN
II. A. Tab 1 - Chính sách của Hoa Kỳ và chế độ Bảo Đại
Tab 2 – Thế thương lượng: Pháp có nhiều hơn có Hoa Kỳ
Tab 3 - Nhận thức về các mối đe dọa của cộng sản Đông Nam Á và về lợi ích cơ bản của Hoa Kỳ
II. 1. A.
Chính sách của Hoa Kỳ và chế độ Bảo Đại
Mục Lục
1. Giải Pháp Bảo Đại
a. Nhữngkhó khăncủa Pháp
b. Hiệp địnhVịnh Hạ Lòngnăm 1948
c. Hiệp định Elyséenăm 1949
d. Chính phủ Bảo Đại
e. Cuộc đàm phán Pau, 1950
2. Chính Sách của Hoa Kỳ đối với Bảo Đại
a. Đủ điều kiện phê duyệt, 1947-1949
b. Công nhận năm 1950
c. Mỹ Viện trợ cho Đông Dương
d. Pháp không khoan nhượng
(1) 1950-1951: De Lattre và "năng động"
(2) 1951-1953: Letourneau và "độc tài"
e. Bảo Đại chờ đợi
f. Các khó khăn của Mỹ A.5
A.5; A.5; A.7; A.7; A.9; A.11; A.11; A.13; A.17; A.18; A.18; A.20; A.22; A.26
II. A. 1. Chính sách của Hoa Kỳ và chế độ Bảo Đại
1. Giải Pháp Bảo Đại
a. Những khó khăn của Pháp
Nhận thứcPháp vê cuộc xung đã đột nổ ra trong tháng Mười Hai, 1946, giữa lực lượng của họ ở Đông Dương và các lực lượng Việt Minh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đã dắt đầu thay niềm lạc quan vô bờ bằng nỗi u ám không kiềm chế được. Trong tháng Năm, năm 1947, Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Coste-Floret tuyên bố ở Paris: "Đã không còn bất cứ vấn đề quân sự gì ở Đông Dương... sự thành công của quân lực Pháp là hoàn tất". 1/Trong sáu tháng, mặc dù hàng loạt tấn công bằng tầu đổ bộ bọc thép, xe lội nước, đánh bom vào vùng núi phía Bắc và dọc bờ biển miền Trung, Việt Minh vẫn đưa ra các cuộc tấn công và phá hoại các trục lộ giao thông qua những [kế hoạch] dàn dựng vững chắc, và lúc ấy Paris đến lúc nhận ra họ đã mất chủ động trên chiến trường. Trong khi đó, Pháp đã tung ra những đột phá chính trị đầy tham vọng và cùng mức độ không hiệu quả. Leon Pignon cố vấn chính trị của chỉ huy Pháp ở Đông Dương, và sau đó thành Cao Ủy [Đông Dương], đã viết vào tháng Giêng, năm 1947, đó là:
"Mục tiêu của chúng ta là rõ ràng: hoán vị [chúng ta] vào lĩnh vực chính trị ở Việt Nam mà chúng ta đang tranh cãi với Việt Minh, và để bản thân chúng ta càng ít tham gia càng tốt vào những chiến dịch quân sự và trả đủa, nó phải là công việc của những đối thủ người bản xứ của đảng đó [Việt Minh]".
Trong vòng một tháng, một sứ giả được gửi vào rừng để giao cho chính phủ Hồ Chí Minh một đòi hỏi tương đương với việc đầu hàng vô điều kiện. Khoảng cùng thời gian đó, đại diện Pháp tiếp cận Bảo Đại, cựu Hoàng đế An Nam, với đề xuất hình thành một chính phủ Việt Nam như một giải pháp thay thế cho Hồ Chí Minh. Vừa không có khả nằng áp đặt một giải pháp quân sự, vừa đã khóa kín mọi đàm phán có ý nghĩa với Hồ, người Pháp đã chuyển sang Bảo Đại như khách hàng tiềm năng duy nhất có thể giúp họ thoát khỏi tình thế tấn thối lưỡng nan ở Việt Nam. 2/
b. Hiệp địnhVịnh Hạ Long năm 1948
Triều đình phong kiến của Bảo Đạiở Huế, Việt Nam, là một cái gì chút ít cao hơn một công cụ trong chính sách thuộc địa của Pháp, và - sau khi bị Nhật Bản chiếm đóng – lại [là công cụ] nằm trong chính sách của Nhật Bản. Bảo Đại trở thành Hoàng đế ở tuổi 12, năm 1925, nhưng đến năm 1932 mới thực sự lên ngôi sau khi được giáo dục tại Pháp. Tháng Támnăm 1945, khi Việt Minh đến Huế, Hoàng Đế thoái vị nhường quyền cho Hồ Chí Minh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và nhận chức vụ "Cố vấn tối cao" cho nhà nước mới. Năm 1946, cựu hoàng rời Việt Nam, và đến Hồng Kông. Ở đó, cựu hoàng bản thân đã được thu hút không chỉ bởi đại diện của Pháp, mà cả VNDCCH, phía nào cũng tìm cách mời ông nhân danh họ mà hành động [thương thuyết] với Pháp.
Ban đầu Bảo Đại giữ vị trí trung lâp đứng giữa hai phe đối thủ nhưng đã sớm được phe quốc gia không cộng sản thuyết phục từ chối lời đề nghị của Việt Minh. Một nhóm các phe này [quốc gia], bao gồm các thành viên của Cao Đài, Hòa Hảo, Đồng Minh Hội, Đại thú, và các VNQPD thành lập một Liên Minh Quốc Gia, và tuyên bố hỗ trợ cho Bảo Đại. Một người uy tín đã đánh giá Liên Minh Quốc Gia là "một liên minh mong manh bao gồm những kẻ hợp tác [với Tầu, với Nhật] mất uy tín, những bậc thầy tham vọng đầy âm mưu, những giáo phái không năng lực, và một số lãnh đạo trung thực nhưng nông cạn không người theo" Trong số những người vừa kể có Ngô Đình Diệm, người đã "lần đầu tiên và lần duy nhất, gia nhập một nhóm mà ông không phải người sáng lập", và đã thề nguyền ủng hộ Hoàng đế miễn là ông ta theo đuổi độc lập cho Việt Nam. 3/
Bây giờ,khi đã loại bỏ được việc chọn ủng hộ Việt Minh, Bảo Đại đã trở nên dễ phục tùng hơn trong các cuộc thương thuyết với người Pháp, và tương ứng, người Pháp trở thành gay gắt hơn trong thái độ của họ đối với Việt Minh. Tuy nhiên, ít cam kết được đúc kết từ các cuộc đàm phán. Ngày07 tháng 12 năm 1947 trên một tàu chiến của Pháp ở Vịnh Hạ Long, Bảo Đại đã ký Hiệp định với Pháp, người Pháp đã cam kết quá ít độc lập chính trị cho Việt Nam đến nỗi ngay tức khắc Hiệp Ước đã bi lên án không chỉ bởi Diệm, mà cả nhiều đồng nghiệp cơ hội chủ nghĩa trong Liên minh Quốc gia. Bảo Đại, trong một hành đông mà được xem như là một rút lui chính trị, tự tách mình ra khỏi những mưu đồ đang khai diễn, và bỏ chạy sang tìm vui trong những điểm giải trí ở Châu Âu trong một chuyến đi chơi bốn tháng, việc làm đã cho ông cái mệnh danh là "Hoàng Đếcâu lạc bộ đêm".
c. Thỏa Thuận Elysée, 1949
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, sau nhiều tháng đàm phán, Tổng thống Pháp Auriol, trong những trao đổi thư tín với Bảo Đại, đã tái khẳng định để Việt Nam độc lập cho như một nước nằm trong Liên Hiệp Pháp và [đưa ra] những]thủ tục chi tiết cho một Việt Nam thống nhất và đặt nó dưới chính quyền của Việt Nam. Tuy nhiên, trong Hiệp địnhElysée, Pháp lại không giao lại quyền kiểm soát cả quân đội lẫn ngoại giao cho phía Việt Nam, và một lần nữa lại hoãn việc sắp xếp cho gần như tất cả các khía cạnh khác của quyền tự chủ. Tuy nhiên, Bảo Đại dường như đã tự thuyết phục rằng Pháp là đủ tuyệt vọng ở Đông Dương để phải tôn trọng Hiệp định, tuyên bố rằng:
… Một thời kỳ tái thiết và đổi mới sẽ mở ra tại Việt Nam. Đất nước sẽ có những định chế dân chủ được đưa ra chủ yếu là để phê duyệt các thỏa thuận hiện tại.... Cải cách sâu sắc về kinh tế và xã hội sẽ được định chế hóa để nâng cao đời sống của nhân dân và thúc đẩy công bằng xã hội là những điều kiên và bảo đảm cho trật tự... [Tôi tìm cách] đoàn kết tất cả người Việt Nam, không phân biệt khuynh hướng chính trị và tôn giáo, và [nhận được] những hỗ trợ hào phóng của nước Pháp mà tôi có thể tin tưởng vào... "5/
Mặc dù lập trường [đã] công khai của mình, Bảo Đại trì hoãn trở về Việt Nam cho đến khi một quốc hội Nam Kỳ được bầu xong (mặc dù là một trò hề bầu cử), và đã không về Sài Gòn cho đến khi Quốc hội Pháp đã phê duyệt việc Nam Kỳ sát nhập vào phần còn lại của Việt Nam [Nam Kỳ không còn là nhượng địa cho Pháp, Bắc kỳ không còn dưới sự bảo hộ của Pháp]. Cuối tháng Sáu, năm 1949, Việt Nam đã được hợp pháp thống nhất dưới thời Bảo Đại, nhưng việc trao lại quyền lực liên quan đến các chức năng hành chính còn chậm, và thường chỉ có tính chất làm mẫu; không có quyền lực thực sự hoặc cơ quan có thẩm quyền đã được chuyển cho phía Việt Nam. Nhà nước Việt Nam [mới] đã trở thành một thứ ngụy trang cho Pháp tiếp tục cai trị ở Đông Dương. Như Bảo Đại, đã mô tả tình hình vào năm 1950, "Những gì họ gọi là một giải pháp Bảo Đại hóa ra chỉ là một giải pháp Pháp.... Tình hình ở Đông Dương mỗi ngày mộtcàng tồi tệ hơn...".
d. Chính Phủ Bảo Đại
Nhiều yếu tố không lành mạnh trong Liên Minh ủng hộ Bảo Đại đã chi phối chế độ của ông. Ngô Đình Diệm và một vài người quốc gia chính trực khác từ chối các chức vị cao trong chính phủ, và rút lại sự ủng hộ của họ cho Bảo Đại từ khi mà họ thất vọng cho những mong đợi của họ về quyền tự chủ [của VN]. Diệm tuyên bố công khai chỉ trích sự liêm khiết của những người đã chấp nhận những chức vụ[trong chính phủ]:
"Nguyện vọng quốc gia của người dân Việt Nam sẽ được thỏa mãn chỉ vào ngày mà quốc gia của chúng ta có được cùng một chế độ chính trị như Ấn Độ và Pakistan đang hưởng... Tôi tin rằng đó là điều duy nhất đúng đắn để bổ nhiệm các chức vụ cho [chính phủ] Việt Nam với những người xứng đáng nhất của đất nước; tôi nói về những người đang chống lại...7/
Tuy nhiên, không chút một cố gắng đi tìm trong giới "kháng chiến", Bảo Đại đã chọn các nhà lãnh đạo cho [chính phủ của] mình trong số những người có những liên hệ mạnh mẽ với Pháp, thường là những người giàu có và đáng nghi ngờ, hoặc có quan hệ với thế giới tân-chủ nghĩa trọng thương của Pháp và những người Việt trụy lạc. Không có người nào có được quần chúng theo sau. Tướng Georges Revers, Tham mưu trưởng của quân đội Pháp, người đã được gửi đến Việt Nam để đánh giá tình hình trong tháng năm và tháng Sáu năm 1949, đã viết rằng:
"Nếu Hồ Chí Minh đã có thể để ngăn chặn sự can thiệp của Pháp quá lâu, bởi vì người lãnh đạo Việt Minh đã được bao quanh mình với một nhóm người mà giá trị là không thể chối cãi... [Bảo Đại, ngược lại] có một chính phủ bao gồm hai mươi đại diện của các đảng ma, đảng tổ chức tốt nhất trong số đó sẽ có khó khăn trong việc tập hợp chỉ 25 thành viên" 8/
Bản thân Bảo Đại, tiếp theo đó, đã không làm gì để làm cho chính phủ của ông có tính đại diện và hiệu quả hơn. Ông chia thời gian của mình trong những niềm vui ở thị trấn nghỉ mát Đà Lạt, Nha Trang, và Ban Mê Thuột, và trên mọi phương diện thực tế, vẫn nằm ngoài sự tiến hành của chính phủ.
Một nhà ngoại giao Hoa Kỳ phục vụ tại Việt Nam vào thời điểm đó, biết rõ Bảo Đại, đã đánh giá ông này trong các từ ngữ sau:
"Bảo Đại, trên tất cả, là một người thông minh trí tuệ, ông có thể thảo luận về các chi tiết phức tạp của các hiệp định khác nhau và toàn bộ mối quan hệ liên quan với Pháp cũng bằng hay tốt hơn so với bất cứ người nào mà tôi biết. Ông là một người đã bị làm tê liệt bởi giáo dục Pháp của ông. Tính cách của ông là quá trầm tĩnh [theo nghĩa cóc cần]. Ông tự cho phép mình bị bán bởi người Pháp dựa trên một sai lầm thay vì trên một khái niệm tiến hóa hợp lý, và khi chuyện đó phù hợp cho mình thì ông cũng đồng tình, và ông đã gần như mang bệnh bị xấu hổ, đó là một trong những lý do mà ông luôn luôn thích đeo kính đen. Có lẽ ông đã qua các chu kỳ trầm cảm, và khi ông chán nản, ông sẽ ăn mặc với bộ quần áo Việt Nam [khăn đóng áo dài]thay vì như người châu Âu, và không nói một tiếng nào về Pháp. Chính sách của ông, ông nói với tôi, trong một hoàn cảnh nghiêm trang, về một trong những chính sách đó, đó là một chính sách ‘gặm nhắm’ hay 'cắt tỉa’,và ông đã đau đớn nhận thức được điều đó. Pháp, tất nhiên, không bao giờ hạnh phúc khi người Hoa Kỳ chúng ta có quan hệ tốt với Bảo Đại, và họ đã nói với ông như vậy. Thật không may, họ [Pháp] cũng có một số [thủ đoạn] hăm dọa ông ta, về mối quan hệ của ông với các doanh nghiệp cờ bạc ở Sài Gòn và tình yêu của ông với sự [tiêu xài] hoang phí." 9/
Dù đức tính của ông ra sao, Bảo Đại không phải là một người có thể kiếm được sự trung thành của nông dân Việt Nam. Ông thậm chí không thể giữ được sự trung thành của những người quốc gia trung chính, một trong số đó, ví dụ, là Bác sĩ Phan Quang Đán - một người lỗi lạc, có khả năng, phi-cộng sản và ban đầu ủng hộ "giải pháp", và là một người bạn riêng của Bảo Đại- (Bác sĩ Đán về sau, là lãnh đạo đối lập thời Diệm). Bác sĩ Đán có một cuộc trò chuyện với mẹ của Bảo Đại, trong đó bà mô tả con trai của mình đã thất bại để tìm ra ai là người đáng tin tưởng, và chán nản với bầu không khí thù địch bao quanh ông. 10/
Thêm nữa, Bác sĩ Đán từ chức Bộ Trưởng Thông tin trong chính phủ Bảo Đại vì [bất mãn] Hiệp định Elysée, và, mặc dù ông vẫn gần gũi với vị hoàng đế, không muốn nhận bất cứ chức vụ gì với vua. Bản thân Bảo Đại đã đưa ra những giải thích mâu thuẩn về triết lý chính trị của ông, điều có thể giải thích lý do tại sao ông không nắm được trái tim của người nông dân đang bị hà hiếp, hay các nhà lãnh đạo chính trị nghiêm túc - không ai trong số những người này có thể tiêu hóa được [ý niệm] "tỉa cắt" khi đòi hỏi phải là một cuộc cách mạng. Bảo Đại nói:
"Làm chính trị giống như chơi một trò chơi, và tôi đã luôn luôn coi là cuộc sống là một trò chơi” 11/
e. Thương thuyết ở Pau, 1950
Tuy nhiên, Bảo Đại đã làm việc để áp lực Pháp. Các quan chức Pháp trong thực tế, than phiền với một nhà văn Hoa Kỳ rằng Bảo Đại đã dành quá nhiều thời gian vào các mục đích như thế:
"Ông ta đã tập trung quá nhiều vào những gì mà ông có thể đòi từ chúng tôi thay vì lo xây dựng việc nhân dân trong nước hỗ trợ mình.. Lịch sử sẽ phán xét nếu ông ta chỉ lo làm quá về điều đó... "12/
Từ cuối tháng Sáu, năm 1950, cho đến cuối tháng mười một, Bảo Đại sát cánh chặc chẽ với hàng loạt hội nghị ở Pau, ở Pháp, được triệu tập để sắp xếp việc chuyển giao cho người Việt Nam các ban ngành về di trú, truyền thông, ngoại thương, hải quan,và tài chính. Vấn đề tài chính là đặc biệt là gai góc vì nó,liên quan đến việc kiểm soát ngoại hối hấp dẫn. Trong khi người Pháp đã có thể có nhiều nhượng bộ đáng kể cho Việt Nam, thì Lào và Campuchia trong từng khu vực thảo luận, đòi được quyền "quan sát" và "can thiệp" trong các vấn đề "liên quan Liên hiệp Pháp như một khối chung." Thật vậy, Pháp đã bảo đảm cho họ được quyền truy cập vào toàn bộ thông tin của chính phủ, tự cho phép mình tham gia vào tất cả các quyết định của chính phủ, và chỉ chịu giảm [nhượng bộ] đi một ít lợi ích kinh tế. 13/
Một số nhà bình luận Pháp xem Pau như một thiên tai không thể làm nhẹ và bảo đảm sự sụp đổ sớm của Pháp ở Đông Dương. Như một trong những người viết đã nêu ra:
"Bằng cách chấp nhận những hạn chế [có thể xảy ra]lênthương mại trong Liên hiệp Pháp, mất tất cả các quyền lực thực sự về việc phát hành tiền, bằng cách từ bỏ quyền kiểm soát về ngành ngoại thương, bằng cách cho phép một hệ thống kiểm soát giá cả đối với hàng hoá xuất và nhập khẩu, chúng ta đã cho các nước thành viên [trong Liên Hiệp Pháp]tất cả quyền lực mà họ cần nếu họ muốn đảm bảo việc hủy hoại các doanh nghiệp của chúng ta và buộc họ [doanh nghiệp] rút lui mà không bất kỳ cách nào tránh không xâm hại đến đồng bào của chúng ta.” 14/ Nhưng một nhà bình luận người Việt thời cận đại đã có một cái nhìn khác:
"Tất cả các hiệp định [Pau] là để bảo tồn cho Pháp một vị trí đặc quyền ở Đông Dương, hỗ trợ bởi sự hiện diện của một hạm đội và một quân đội mạnh mẽ. Ngay cả nếu không còn một ai còn nói về một Liên bang Đông Dương, nó vẫn là một liên bang hành chính và kinh tế (Liên minh tiền tệ, Liên minh Hải quan, Liên minh Truyền thông, v.v…) phối hợp các hoạt động khác nhau của ba nước thành viên [Việt, Miên, Lào]. Pháp luôn luôn thực hiện việc kiểm soát thông qua các đại diện của họ có mặt trong tất cả các cơ quan quy hoạch, giám sát liên bang, và thông qua một thứ như quyền phủ quyết, bởi vì chủ tịch hoặc Tổng thư ký của các ban luôn luôn là được lựa chọn bởi quyết định chung của bốn chính phủ [Việt, Miên, Lào và Pháp], và hơn nữa, bởi vì hầu hết các quyết định của ủy ban được thực hiện theo nguyên tắc nhất trí".(Trích dẫn trong cùng một tài liệu tham khảo ở trên)
Đại biểu của Bảo Đại, tuy nhiên, nói chung hài lòng với kết quả của Pau. Thủ tướng Chính phủ của ông, Trần Văn Hữu đã tuyên bố khi ông đã ký các hiệp định rằng "độc lập của chúng tôi bây giờ là hoàn hảo." Tuy nhiên, với những người Việt Nam bình thường, những người Pháp trung thực, và với người Mỹ, Trần Văn Hữu được chứng minh là đã sai một cách thê thảm.
Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Đế quốc Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện. Thế Chiến II chấm dứt.
Ngày 28-8-1945, Bảo Đại thoái vị và trao ấn, kiếm cho Đại diện Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, tuyên bố xoá bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam để lại câu nói lịch sử “Tôi thà làm công dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ” và trở thành Cố Vấn Tối Cao cho chính phủ Hồ Chí Minh.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, ở Hà Nội, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hoàn toàn độc lập.
Năm 1946, Bảo Đại chạy qua Hồng Kông.Ở đó, cựu hoàng bản thân đã được thu hút không chỉ bởi đại diện của Pháp, mà cả VNDCCH, phía nào cũng tìm cách mời ông nhân danh họ mà hành động [thương thuyết] với Pháp. Sau cùng Bảo Đại đã bỏ Việt Minh và chấp nhận đứng đầu một Liên Minh Quốc Gia mới được thành lập và từ đây một thực thể Quốc Gia đối kháng với Cộng Sản thành hình. Đó là bối cảnh Việt Nam từ khi Nhật hất cẳng Pháp, đầu hàng năm 1945 đến 1950 mà một liên minh tay ba: Pháp, Bảo Đại và Mỹ xuất hiện với hai mục đích rõ ràng:
Pháp muốn tái lập chủ quyền thực dân ở Việt Nam, Mỹ muốn ngăn chận bành trướng của Cộng Sản [Trung Quốc] theo chủ thuyết Domino, Bảo Đại thì chỉ muốn làm tay chơi, ai cung phụng cho ông đều tốt cả … Cái thế “tiêu tùng” là ở chỗ đó .
Pháp thì không muốn trao Độc Lập thực sự cho phe Quốc Gia Việt Nam, ngay cho đến khi sắp thất thủ ở Điện Biên Phủ vẫn ngoan cố không là không . Phe Quốc Gia dưới Bảo Đại thì không có lòng dân, quân đội vẫn do Pháp nắm, Bảo Đại thì ù lì gần như không làm gì hết ngoại trừ ăn chơi, hộp đêm, đánh bạc, săn bắn, đua xe. Mỹ thì bị Pháp xỏ mũi dẫn dắt dù rất muốn và đã ép Pháp trao Độc lập hoàn toàn cho Việt Nam để tạo thế mạnh cho phe Quốc Gia chống lại Việt Minh lúc này chỉ gồm toàn là Cộng Sản…
Điện Biên Phủ thất thủ, Pháp đầu hàng, Hội Nghị Geneva kết thúc, Việt Nam hoàn toàn “Độc Lập” và bị chia hai . Miền Bắc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa “Độc Lập” dưới tượng đài Mác-Lê-Mao, miền Nam Việt Nam Công Hòa dưới tượng đài Tự Do mà vai trò là “tiền đồn chống cộng”.
Từ đây hai chữ Quốc Gia và Cộng Sản mang đầy đủ nội hàm thù địch, sinh tử, súng đạn, bom mìn, chém giết và tàn phá …
“Bí mật Ngũ Giác Đài – Phần III” là diễn tiến Hội Nghị Geneva …
Tôi sẽ trở lại sau khi tìm hiểu vì sao ông Ngô Đình Diệm bị lật và bị giết cùng với bào đệ Ngô Đình Nhu trong “Bí mật Ngũ Giác Đài – Phần IV-B-5” ( [Part IV. B. 5.] Evolution of the War. Counterinsurgency: The Overthrow of Ngo Dinh Diem, May-Nov. 1963)
“Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần II:
Tham Gia Vào Chiến Tranh Pháp Việt 1950 - 1954”
II. Hoa Kỳ Tham Gia vào Chiến Tranh Pháp – Việt Minh 1950-1954 (tập 1)
A. Hoa Kỳ, Pháp và chủ nghĩa Dân Tộc Pháp
B. Hướng về một giải pháp thương lượng
Phần II
Hoa Kỳ Tham Gia vào Chiến Tranh Pháp – Việt Minh
1950-1954
Lời nói đầu
Phầnnghiên cứu này về chính sách của Hoa Kỳ về cuộc chiến tranh ở Đông Dương kể từ lúc Hoa Kỳ quyết định công nhận chế độ Việt Nam Quốc Gia của Hoàng đế Bảo Đại vào tháng Hai, 1950, thông qua việc thảo luận về một sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ vào cuối năm 1953 và đầu năm 1954. Mục A xem xét các mối quan hệ tam giác giữa Pháp, Mỹ, và chế độ Bảo Đại. Mục Bphân tích kết quả của sự can thiệp, và các tiền đề cho Hội nghị Geneva.
A. Hoa Kỳ, Pháp và chủ nghĩa quốc gia Việt Nam
B. Tiến tới một giải pháp thương lượng
II. A. HOA KỲ, PHÁP VÀ CHỦ NGHĨA QUỐC GIA VIỆT NAM
TÓM TẮT
Đã có lập luận rằng ngay cả khi Hoa Kỳ bắt đầu hỗ trợ cho người Pháp ở Đông Dương, Hoa Kỳ đãbỏ lỡ cơ hội để mang lại hòa bình, ổn định và độc lập cho Việt Nam. Các vấn đề đã được nêu lên từ niềm tin của một số nhà phê bình rằng (a) Hoa Kỳ đã không cố gắng tìm kiếm và hỗ trợ một giải pháp quốc gia khác ở Việt Nam và (b) Hoa Kỳ chỉ huy, nhưng đã không sử dụng, nhữngthế thượng phong của mình để thúc đẩy Pháp trao trả Độc Lập chân chính cho Việt Nam.
Tài liệu ghi chép lại đã cho thấy cho đến năm 1953,người Pháp theo đuổi một chính sách dựa trên chiến thắng quân sự và đã loại trừ các cuộc đàm phán có ý nghĩa với Hồ Chí Minh. Người Pháp, tuy nhiên, đã công nhận là có đòi hỏi hướng về khát vọng quốc gia Việt Nam, và từ năm 1947 về sau, đã đưa ra "giải pháp Bảo Đại". Những tài liệu này cũng cho thấy thái độ do dự của Hoa Kỳ cho tới 1949 mới thông qua "giải pháp Bảo Đại" [với điều kiện] cho đến khi nào Việt Nam đã được thống nhất trên thực tế và được giao quyền tự chủ và nhất quán hổ trợ việc tạo dựng một chính phủ Việt Nam thực sự độc lập và không cộng sản để thay thế Pháp. Tuy nhiên,sự sụp đổ của Trung Quốc và các tình hình quân sự của Pháp bị xấu đi ở Đông Dương đã đưa đến cả Pháp và Hoa Kỳ đều nhấn vào "giải pháp Bảo Đại."
Đầunăm 1950, sau khi Pháp phê chuẩn Hiệp định Elysée đã trao "Độc lập” choViệt Nam, Hoa Kỳ công nhận Bảo Đại và khởi sự viện trợ kinh tế và quân sự được khởi xướng, ngay trước cả khi việc chuyển giao quyền lực của Chính phủ xảy ra trên thực tế. Sau đó,người Phápchỉ chuyển giao việc kiểm soát trên hình thức, trong khi Hoàng Đế Bảo Đại thì chỉ muốn giữ một vai trò nghĩ hưu và thụ động, và giao chính phủ cho những chính trị gia không uy tín. Chính quyền Bảo Đại không được lòng dân và cũng không hiệu quả, và quân đội của họ, phụ thuộc vào chỉ huy người Pháp, tỏ ra bất lực. Sự bất lực của chế độ Bảo Đại, sự thiếu vắng bất kỳ lựa chọn thay thế nào có thể thấy được (trừ những người cộng sản), sự kiện Pháp tiếp tục nắm quyền và kiểm soát Chính phủ Việt Nam, sự kiện là dường như chỉ có một mình người Pháp là có khả năng ngăn chận cộng sản ở Đông Dương - tất cả những hạn chế đó đã thúc giục Hoa Kỳ [ủng hộ] cho một chính phủ dân chủ-quốc gia ở Việt Nam. (Bảng 1)
[Vì] Cácmối quan hệ Mỹ-Pháp ở châu Âu (NATO, Kế hoạch Marshall, Chương trình Hỗ trợ Lẫn Nhau về Quốc phòng) khiến Hoa Kỳ không mấy mạnh mẽ trong việc đòi hỏi Pháp nhượng bộ cho phía Việt Nam quốc gia. Bất kỳ với chuyện nào kể trên, thế nói chuyện với Pháp [về Đông Dương], Hoa kỳ đêu bị hạn chế bởi những cân nhắc rộng hơn nặng về chính sách ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở châu Âu và châu Á. NATO và Kế hoạch Marshall bản thân chúng được đánh giá là những thiết yếu cho lợi ích của chúng ta ở Châu Âu. Đe dọa trừng phạt kinh tế và quân sự với Pháp ở châu Âu để ép Pháp thay đổi chính sách của họ ởĐông Dương, vìvậy, trở nên không thích đáng. Tương tự như vậy, giảm mức viện trợ quân sự cho các nỗ lực của Pháp ở Đông Dương sẽ là phản tác dụng, vì làm như thế sẽ làm suy giảm hơn nữa vị thế quân sự Pháp ở đó. Nói một cách khác, có một sự đối nghịch cơ bản giữa hai con đường trong chính sách của Mỹ: (1) Washington muốn Pháp chiến đấu và chiến thắng cộng sản, tốt nhất là dưới sự hướng dẫn và tư vấn của Mỹ, và (2) Washington chờ đợi Pháp, sau khi chiến thắng [Thế Chiến] đã được đảm bảo thì nên cao thượng mà rút ra khỏi Đông Dương. Đối với Pháp, cólẽ họ đã chiến đấu trong chiến tranh thuộc địa nhiều hơn là trong chiến tranh chống cộng sản, chắc đã thấy hậu quả của việc rút ra sẽ ảnh hưởng đến các thuộc địa khác như Algeria, Tunisia và Ma Rốc, chuyện cao thượng rút quân chắc là không có khả năng.
Chính sách của Pháp không có những đối khángnhư thế, đã có thể theođuổi cuộc đua thương lượng với một thế mạnh hơn. Malthus, người Pháp đã chống lại áp lực từ Washington và cơ quan MAAG [Military Assistance Advisory Group] ở Sài Gòn là muốn tạo ra một đội quân thật sự Việt Nam, được nhiều tự chủ hơn ở Việt Nam và theo đuổi cuộc chiến tranh có hiệu quả hơn. MAAG bị chuyển xuống thành một cơ quan tiếp liệu và những lời nhắc nhở đôi khi của họ thường được người Pháp diễn giải như nhữngcan thiệp vào công việc nội của họ. Mặc dùcho đến năm 1954, Hoa Kỳ tài trợ 78% của chiến phí, người Pháp vẫn kiểm soát toàn bộ việc bố trí viện trợ quân sự và các công tác tin tức tình báo và việc lập kế hoạch các chiến dịch quân sự. Những kỳ vọng chiến thắng của Pháp trên Việt Minh đã khuyến khích Hoa Kỳ "đồng hành" với Paris cho đến khi chiến tranh kết thúc [1954]. Hơn nữa, Hoa Kỳ miễn cưỡng đối kháng với Pháp bởi vì các ưu tiên trong kế hoạch của Washington là cần sự tham gia của Pháp trong cộng đồng Quốc phòng Châu Âu. Pháp, vì vậy, đã có con chủ bài đáng kể và, trừ khi Hoa Kỳ phải hổ trợ trên các điều kiện của Paris, nếu không Pháp có thể, trên thực tế, Pháp đã thực sự đe dọa không tham gia EDC [Liên minh quốc phòng Âu Châu – European Defense Community] và [đe dọa] ngưng chiến đấu ở Đông Dương. (Tab 2)
Giới học giả và hoạch định chính sách của Hoa Kỳ có khuynh hướng đánh giá cộng sản như một cục nguyên khối. Việt Minh, vì vậy, đã được coi là một phần của Đông Nam Á trong toan tính mở rộng phong trào cộng sản trên toàn thế giới. Mặt khác, việc đối kháng của Pháp với Hồ Chí Minh, lại được cho rằng đó là một việc thiết yếu trong việc ngăn chận cộng sản. Nhận thức về các mối đe dọa chiến lược của cộng sản, hổ trợ bởi nguyên tắc Domino: chỉ cần một quốc gia đơn nhất ở Đông Nam Á bị rơi vào tay cộng sản, thì việc các quốc gia khác trong khu vực rơi sẽ vào vòng kiểm soát của cộng sản là không thể đảo ngược.Thuyết Domino, bắt nguồn có lẽ từ thời điểm mà phe Quốc Gia rút khỏi Đại Lục Trung Quốc, là gốc rễ của chính sách của Mỹ. Mặc dù các yếu tố của thuyết Domino, có thể được tìm thấy trong các giấy tờ NSC [Hội Đồng An Ninh Quốc Gia – National Sesurity Council] trước khi chiến tranh Triều Tiên bắt đầu, sự can thiệp của Trung Quốc vào [chiến tranh Triều Tiên] được cho là một xác nhận đáng ngại về gía trị của lý thuyết này. Khả năng một sự can thiệp quy mô lớn của Trung Quốc ở Đông Dương, tương tự như ở [bán đảo] Triều Tiên, là đáng lo ngại, đặc biệt là sau khi hiệp ước đình chiến ở Triều Tiên [được ký kết].
Chính quyền Eisenhower tiếp nối các chính sách cơ bản của vị tiền nhiệm của mình, cũng là vẫn là tiếp tục đẩy mạnh các cam kết của Hoa Kỳ ngăn chặn [cộng sản] ở châu Á. Bộ Trưởng [Ngoại Giao] Dulles theo đuổi một chính sách thẳng băng và chống cộng đã nói rõ rằng ông sẽ không cho phép "mất” Đông Dương, trong cách thức như phe Dân chủ đã đã làm "mất" Trung Quốc [vào tay cộng sản]. Dulles đã cảnh cáo Trung Hoa [công sản] không được can thiệp, và kêu gọi người Pháp phải hướng tới một chiến thắng quân sự. Dulles chống đối một cuộc ngưng bắn và cố gắng thuyết phục Pháp tránh đàm phán với Việt Minh cho đến chừng nào họ đạt được những cải thiện đáng kể vị thế thương lượng của mình thông qua hành động của họ trên chiến trường. Hội Đồng An Ninh Quốc Gia vào đầu năm 1954 đã được thuyết phục rằng một chế độ liên minh phi cộng sản cuối cùng rồi sẽ giao đất nước cho Việt Minh. Hậu quả là với một chính sách thiên quân sự này, chính phủ Hoa Kỳ có xu hướng tập trung vào khía cạnh quân sự nhiều hơn chính trị trong cuộc chiến giữa Pháp và Việt Minh.. (Tab 3 )
THẢO LUẬN
II. A. Tab 1 - Chính sách của Hoa Kỳ và chế độ Bảo Đại
Tab 2 – Thế thương lượng: Pháp có nhiều hơn có Hoa Kỳ
Tab 3 - Nhận thức về các mối đe dọa của cộng sản Đông Nam Á và về lợi ích cơ bản của Hoa Kỳ
II. 1. A.
Chính sách của Hoa Kỳ và chế độ Bảo Đại
Mục Lục
1. Giải Pháp Bảo Đại
a. Nhữngkhó khăncủa Pháp
b. Hiệp địnhVịnh Hạ Lòngnăm 1948
c. Hiệp định Elyséenăm 1949
d. Chính phủ Bảo Đại
e. Cuộc đàm phán Pau, 1950
2. Chính Sách của Hoa Kỳ đối với Bảo Đại
a. Đủ điều kiện phê duyệt, 1947-1949
b. Công nhận năm 1950
c. Mỹ Viện trợ cho Đông Dương
d. Pháp không khoan nhượng
(1) 1950-1951: De Lattre và "năng động"
(2) 1951-1953: Letourneau và "độc tài"
e. Bảo Đại chờ đợi
f. Các khó khăn của Mỹ A.5
A.5; A.5; A.7; A.7; A.9; A.11; A.11; A.13; A.17; A.18; A.18; A.20; A.22; A.26
II. A. 1. Chính sách của Hoa Kỳ và chế độ Bảo Đại
1. Giải Pháp Bảo Đại
a. Những khó khăn của Pháp
Nhận thứcPháp vê cuộc xung đã đột nổ ra trong tháng Mười Hai, 1946, giữa lực lượng của họ ở Đông Dương và các lực lượng Việt Minh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đã dắt đầu thay niềm lạc quan vô bờ bằng nỗi u ám không kiềm chế được. Trong tháng Năm, năm 1947, Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Coste-Floret tuyên bố ở Paris: "Đã không còn bất cứ vấn đề quân sự gì ở Đông Dương... sự thành công của quân lực Pháp là hoàn tất". 1/Trong sáu tháng, mặc dù hàng loạt tấn công bằng tầu đổ bộ bọc thép, xe lội nước, đánh bom vào vùng núi phía Bắc và dọc bờ biển miền Trung, Việt Minh vẫn đưa ra các cuộc tấn công và phá hoại các trục lộ giao thông qua những [kế hoạch] dàn dựng vững chắc, và lúc ấy Paris đến lúc nhận ra họ đã mất chủ động trên chiến trường. Trong khi đó, Pháp đã tung ra những đột phá chính trị đầy tham vọng và cùng mức độ không hiệu quả. Leon Pignon cố vấn chính trị của chỉ huy Pháp ở Đông Dương, và sau đó thành Cao Ủy [Đông Dương], đã viết vào tháng Giêng, năm 1947, đó là:
"Mục tiêu của chúng ta là rõ ràng: hoán vị [chúng ta] vào lĩnh vực chính trị ở Việt Nam mà chúng ta đang tranh cãi với Việt Minh, và để bản thân chúng ta càng ít tham gia càng tốt vào những chiến dịch quân sự và trả đủa, nó phải là công việc của những đối thủ người bản xứ của đảng đó [Việt Minh]".
Trong vòng một tháng, một sứ giả được gửi vào rừng để giao cho chính phủ Hồ Chí Minh một đòi hỏi tương đương với việc đầu hàng vô điều kiện. Khoảng cùng thời gian đó, đại diện Pháp tiếp cận Bảo Đại, cựu Hoàng đế An Nam, với đề xuất hình thành một chính phủ Việt Nam như một giải pháp thay thế cho Hồ Chí Minh. Vừa không có khả nằng áp đặt một giải pháp quân sự, vừa đã khóa kín mọi đàm phán có ý nghĩa với Hồ, người Pháp đã chuyển sang Bảo Đại như khách hàng tiềm năng duy nhất có thể giúp họ thoát khỏi tình thế tấn thối lưỡng nan ở Việt Nam. 2/
b. Hiệp địnhVịnh Hạ Long năm 1948
Triều đình phong kiến của Bảo Đạiở Huế, Việt Nam, là một cái gì chút ít cao hơn một công cụ trong chính sách thuộc địa của Pháp, và - sau khi bị Nhật Bản chiếm đóng – lại [là công cụ] nằm trong chính sách của Nhật Bản. Bảo Đại trở thành Hoàng đế ở tuổi 12, năm 1925, nhưng đến năm 1932 mới thực sự lên ngôi sau khi được giáo dục tại Pháp. Tháng Támnăm 1945, khi Việt Minh đến Huế, Hoàng Đế thoái vị nhường quyền cho Hồ Chí Minh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và nhận chức vụ "Cố vấn tối cao" cho nhà nước mới. Năm 1946, cựu hoàng rời Việt Nam, và đến Hồng Kông. Ở đó, cựu hoàng bản thân đã được thu hút không chỉ bởi đại diện của Pháp, mà cả VNDCCH, phía nào cũng tìm cách mời ông nhân danh họ mà hành động [thương thuyết] với Pháp.
Ban đầu Bảo Đại giữ vị trí trung lâp đứng giữa hai phe đối thủ nhưng đã sớm được phe quốc gia không cộng sản thuyết phục từ chối lời đề nghị của Việt Minh. Một nhóm các phe này [quốc gia], bao gồm các thành viên của Cao Đài, Hòa Hảo, Đồng Minh Hội, Đại thú, và các VNQPD thành lập một Liên Minh Quốc Gia, và tuyên bố hỗ trợ cho Bảo Đại. Một người uy tín đã đánh giá Liên Minh Quốc Gia là "một liên minh mong manh bao gồm những kẻ hợp tác [với Tầu, với Nhật] mất uy tín, những bậc thầy tham vọng đầy âm mưu, những giáo phái không năng lực, và một số lãnh đạo trung thực nhưng nông cạn không người theo" Trong số những người vừa kể có Ngô Đình Diệm, người đã "lần đầu tiên và lần duy nhất, gia nhập một nhóm mà ông không phải người sáng lập", và đã thề nguyền ủng hộ Hoàng đế miễn là ông ta theo đuổi độc lập cho Việt Nam. 3/
Bây giờ,khi đã loại bỏ được việc chọn ủng hộ Việt Minh, Bảo Đại đã trở nên dễ phục tùng hơn trong các cuộc thương thuyết với người Pháp, và tương ứng, người Pháp trở thành gay gắt hơn trong thái độ của họ đối với Việt Minh. Tuy nhiên, ít cam kết được đúc kết từ các cuộc đàm phán. Ngày07 tháng 12 năm 1947 trên một tàu chiến của Pháp ở Vịnh Hạ Long, Bảo Đại đã ký Hiệp định với Pháp, người Pháp đã cam kết quá ít độc lập chính trị cho Việt Nam đến nỗi ngay tức khắc Hiệp Ước đã bi lên án không chỉ bởi Diệm, mà cả nhiều đồng nghiệp cơ hội chủ nghĩa trong Liên minh Quốc gia. Bảo Đại, trong một hành đông mà được xem như là một rút lui chính trị, tự tách mình ra khỏi những mưu đồ đang khai diễn, và bỏ chạy sang tìm vui trong những điểm giải trí ở Châu Âu trong một chuyến đi chơi bốn tháng, việc làm đã cho ông cái mệnh danh là "Hoàng Đếcâu lạc bộ đêm".
c. Thỏa Thuận Elysée, 1949
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, sau nhiều tháng đàm phán, Tổng thống Pháp Auriol, trong những trao đổi thư tín với Bảo Đại, đã tái khẳng định để Việt Nam độc lập cho như một nước nằm trong Liên Hiệp Pháp và [đưa ra] những]thủ tục chi tiết cho một Việt Nam thống nhất và đặt nó dưới chính quyền của Việt Nam. Tuy nhiên, trong Hiệp địnhElysée, Pháp lại không giao lại quyền kiểm soát cả quân đội lẫn ngoại giao cho phía Việt Nam, và một lần nữa lại hoãn việc sắp xếp cho gần như tất cả các khía cạnh khác của quyền tự chủ. Tuy nhiên, Bảo Đại dường như đã tự thuyết phục rằng Pháp là đủ tuyệt vọng ở Đông Dương để phải tôn trọng Hiệp định, tuyên bố rằng:
… Một thời kỳ tái thiết và đổi mới sẽ mở ra tại Việt Nam. Đất nước sẽ có những định chế dân chủ được đưa ra chủ yếu là để phê duyệt các thỏa thuận hiện tại.... Cải cách sâu sắc về kinh tế và xã hội sẽ được định chế hóa để nâng cao đời sống của nhân dân và thúc đẩy công bằng xã hội là những điều kiên và bảo đảm cho trật tự... [Tôi tìm cách] đoàn kết tất cả người Việt Nam, không phân biệt khuynh hướng chính trị và tôn giáo, và [nhận được] những hỗ trợ hào phóng của nước Pháp mà tôi có thể tin tưởng vào... "5/
Mặc dù lập trường [đã] công khai của mình, Bảo Đại trì hoãn trở về Việt Nam cho đến khi một quốc hội Nam Kỳ được bầu xong (mặc dù là một trò hề bầu cử), và đã không về Sài Gòn cho đến khi Quốc hội Pháp đã phê duyệt việc Nam Kỳ sát nhập vào phần còn lại của Việt Nam [Nam Kỳ không còn là nhượng địa cho Pháp, Bắc kỳ không còn dưới sự bảo hộ của Pháp]. Cuối tháng Sáu, năm 1949, Việt Nam đã được hợp pháp thống nhất dưới thời Bảo Đại, nhưng việc trao lại quyền lực liên quan đến các chức năng hành chính còn chậm, và thường chỉ có tính chất làm mẫu; không có quyền lực thực sự hoặc cơ quan có thẩm quyền đã được chuyển cho phía Việt Nam. Nhà nước Việt Nam [mới] đã trở thành một thứ ngụy trang cho Pháp tiếp tục cai trị ở Đông Dương. Như Bảo Đại, đã mô tả tình hình vào năm 1950, "Những gì họ gọi là một giải pháp Bảo Đại hóa ra chỉ là một giải pháp Pháp.... Tình hình ở Đông Dương mỗi ngày mộtcàng tồi tệ hơn...".
d. Chính Phủ Bảo Đại
Nhiều yếu tố không lành mạnh trong Liên Minh ủng hộ Bảo Đại đã chi phối chế độ của ông. Ngô Đình Diệm và một vài người quốc gia chính trực khác từ chối các chức vị cao trong chính phủ, và rút lại sự ủng hộ của họ cho Bảo Đại từ khi mà họ thất vọng cho những mong đợi của họ về quyền tự chủ [của VN]. Diệm tuyên bố công khai chỉ trích sự liêm khiết của những người đã chấp nhận những chức vụ[trong chính phủ]:
"Nguyện vọng quốc gia của người dân Việt Nam sẽ được thỏa mãn chỉ vào ngày mà quốc gia của chúng ta có được cùng một chế độ chính trị như Ấn Độ và Pakistan đang hưởng... Tôi tin rằng đó là điều duy nhất đúng đắn để bổ nhiệm các chức vụ cho [chính phủ] Việt Nam với những người xứng đáng nhất của đất nước; tôi nói về những người đang chống lại...7/
Tuy nhiên, không chút một cố gắng đi tìm trong giới "kháng chiến", Bảo Đại đã chọn các nhà lãnh đạo cho [chính phủ của] mình trong số những người có những liên hệ mạnh mẽ với Pháp, thường là những người giàu có và đáng nghi ngờ, hoặc có quan hệ với thế giới tân-chủ nghĩa trọng thương của Pháp và những người Việt trụy lạc. Không có người nào có được quần chúng theo sau. Tướng Georges Revers, Tham mưu trưởng của quân đội Pháp, người đã được gửi đến Việt Nam để đánh giá tình hình trong tháng năm và tháng Sáu năm 1949, đã viết rằng:
"Nếu Hồ Chí Minh đã có thể để ngăn chặn sự can thiệp của Pháp quá lâu, bởi vì người lãnh đạo Việt Minh đã được bao quanh mình với một nhóm người mà giá trị là không thể chối cãi... [Bảo Đại, ngược lại] có một chính phủ bao gồm hai mươi đại diện của các đảng ma, đảng tổ chức tốt nhất trong số đó sẽ có khó khăn trong việc tập hợp chỉ 25 thành viên" 8/
Bản thân Bảo Đại, tiếp theo đó, đã không làm gì để làm cho chính phủ của ông có tính đại diện và hiệu quả hơn. Ông chia thời gian của mình trong những niềm vui ở thị trấn nghỉ mát Đà Lạt, Nha Trang, và Ban Mê Thuột, và trên mọi phương diện thực tế, vẫn nằm ngoài sự tiến hành của chính phủ.
Một nhà ngoại giao Hoa Kỳ phục vụ tại Việt Nam vào thời điểm đó, biết rõ Bảo Đại, đã đánh giá ông này trong các từ ngữ sau:
"Bảo Đại, trên tất cả, là một người thông minh trí tuệ, ông có thể thảo luận về các chi tiết phức tạp của các hiệp định khác nhau và toàn bộ mối quan hệ liên quan với Pháp cũng bằng hay tốt hơn so với bất cứ người nào mà tôi biết. Ông là một người đã bị làm tê liệt bởi giáo dục Pháp của ông. Tính cách của ông là quá trầm tĩnh [theo nghĩa cóc cần]. Ông tự cho phép mình bị bán bởi người Pháp dựa trên một sai lầm thay vì trên một khái niệm tiến hóa hợp lý, và khi chuyện đó phù hợp cho mình thì ông cũng đồng tình, và ông đã gần như mang bệnh bị xấu hổ, đó là một trong những lý do mà ông luôn luôn thích đeo kính đen. Có lẽ ông đã qua các chu kỳ trầm cảm, và khi ông chán nản, ông sẽ ăn mặc với bộ quần áo Việt Nam [khăn đóng áo dài]thay vì như người châu Âu, và không nói một tiếng nào về Pháp. Chính sách của ông, ông nói với tôi, trong một hoàn cảnh nghiêm trang, về một trong những chính sách đó, đó là một chính sách ‘gặm nhắm’ hay 'cắt tỉa’,và ông đã đau đớn nhận thức được điều đó. Pháp, tất nhiên, không bao giờ hạnh phúc khi người Hoa Kỳ chúng ta có quan hệ tốt với Bảo Đại, và họ đã nói với ông như vậy. Thật không may, họ [Pháp] cũng có một số [thủ đoạn] hăm dọa ông ta, về mối quan hệ của ông với các doanh nghiệp cờ bạc ở Sài Gòn và tình yêu của ông với sự [tiêu xài] hoang phí." 9/
Dù đức tính của ông ra sao, Bảo Đại không phải là một người có thể kiếm được sự trung thành của nông dân Việt Nam. Ông thậm chí không thể giữ được sự trung thành của những người quốc gia trung chính, một trong số đó, ví dụ, là Bác sĩ Phan Quang Đán - một người lỗi lạc, có khả năng, phi-cộng sản và ban đầu ủng hộ "giải pháp", và là một người bạn riêng của Bảo Đại- (Bác sĩ Đán về sau, là lãnh đạo đối lập thời Diệm). Bác sĩ Đán có một cuộc trò chuyện với mẹ của Bảo Đại, trong đó bà mô tả con trai của mình đã thất bại để tìm ra ai là người đáng tin tưởng, và chán nản với bầu không khí thù địch bao quanh ông. 10/
Thêm nữa, Bác sĩ Đán từ chức Bộ Trưởng Thông tin trong chính phủ Bảo Đại vì [bất mãn] Hiệp định Elysée, và, mặc dù ông vẫn gần gũi với vị hoàng đế, không muốn nhận bất cứ chức vụ gì với vua. Bản thân Bảo Đại đã đưa ra những giải thích mâu thuẩn về triết lý chính trị của ông, điều có thể giải thích lý do tại sao ông không nắm được trái tim của người nông dân đang bị hà hiếp, hay các nhà lãnh đạo chính trị nghiêm túc - không ai trong số những người này có thể tiêu hóa được [ý niệm] "tỉa cắt" khi đòi hỏi phải là một cuộc cách mạng. Bảo Đại nói:
"Làm chính trị giống như chơi một trò chơi, và tôi đã luôn luôn coi là cuộc sống là một trò chơi” 11/
e. Thương thuyết ở Pau, 1950
Tuy nhiên, Bảo Đại đã làm việc để áp lực Pháp. Các quan chức Pháp trong thực tế, than phiền với một nhà văn Hoa Kỳ rằng Bảo Đại đã dành quá nhiều thời gian vào các mục đích như thế:
"Ông ta đã tập trung quá nhiều vào những gì mà ông có thể đòi từ chúng tôi thay vì lo xây dựng việc nhân dân trong nước hỗ trợ mình.. Lịch sử sẽ phán xét nếu ông ta chỉ lo làm quá về điều đó... "12/
Từ cuối tháng Sáu, năm 1950, cho đến cuối tháng mười một, Bảo Đại sát cánh chặc chẽ với hàng loạt hội nghị ở Pau, ở Pháp, được triệu tập để sắp xếp việc chuyển giao cho người Việt Nam các ban ngành về di trú, truyền thông, ngoại thương, hải quan,và tài chính. Vấn đề tài chính là đặc biệt là gai góc vì nó,liên quan đến việc kiểm soát ngoại hối hấp dẫn. Trong khi người Pháp đã có thể có nhiều nhượng bộ đáng kể cho Việt Nam, thì Lào và Campuchia trong từng khu vực thảo luận, đòi được quyền "quan sát" và "can thiệp" trong các vấn đề "liên quan Liên hiệp Pháp như một khối chung." Thật vậy, Pháp đã bảo đảm cho họ được quyền truy cập vào toàn bộ thông tin của chính phủ, tự cho phép mình tham gia vào tất cả các quyết định của chính phủ, và chỉ chịu giảm [nhượng bộ] đi một ít lợi ích kinh tế. 13/
Một số nhà bình luận Pháp xem Pau như một thiên tai không thể làm nhẹ và bảo đảm sự sụp đổ sớm của Pháp ở Đông Dương. Như một trong những người viết đã nêu ra:
"Bằng cách chấp nhận những hạn chế [có thể xảy ra]lênthương mại trong Liên hiệp Pháp, mất tất cả các quyền lực thực sự về việc phát hành tiền, bằng cách từ bỏ quyền kiểm soát về ngành ngoại thương, bằng cách cho phép một hệ thống kiểm soát giá cả đối với hàng hoá xuất và nhập khẩu, chúng ta đã cho các nước thành viên [trong Liên Hiệp Pháp]tất cả quyền lực mà họ cần nếu họ muốn đảm bảo việc hủy hoại các doanh nghiệp của chúng ta và buộc họ [doanh nghiệp] rút lui mà không bất kỳ cách nào tránh không xâm hại đến đồng bào của chúng ta.” 14/ Nhưng một nhà bình luận người Việt thời cận đại đã có một cái nhìn khác:
"Tất cả các hiệp định [Pau] là để bảo tồn cho Pháp một vị trí đặc quyền ở Đông Dương, hỗ trợ bởi sự hiện diện của một hạm đội và một quân đội mạnh mẽ. Ngay cả nếu không còn một ai còn nói về một Liên bang Đông Dương, nó vẫn là một liên bang hành chính và kinh tế (Liên minh tiền tệ, Liên minh Hải quan, Liên minh Truyền thông, v.v…) phối hợp các hoạt động khác nhau của ba nước thành viên [Việt, Miên, Lào]. Pháp luôn luôn thực hiện việc kiểm soát thông qua các đại diện của họ có mặt trong tất cả các cơ quan quy hoạch, giám sát liên bang, và thông qua một thứ như quyền phủ quyết, bởi vì chủ tịch hoặc Tổng thư ký của các ban luôn luôn là được lựa chọn bởi quyết định chung của bốn chính phủ [Việt, Miên, Lào và Pháp], và hơn nữa, bởi vì hầu hết các quyết định của ủy ban được thực hiện theo nguyên tắc nhất trí".(Trích dẫn trong cùng một tài liệu tham khảo ở trên)
Đại biểu của Bảo Đại, tuy nhiên, nói chung hài lòng với kết quả của Pau. Thủ tướng Chính phủ của ông, Trần Văn Hữu đã tuyên bố khi ông đã ký các hiệp định rằng "độc lập của chúng tôi bây giờ là hoàn hảo." Tuy nhiên, với những người Việt Nam bình thường, những người Pháp trung thực, và với người Mỹ, Trần Văn Hữu được chứng minh là đã sai một cách thê thảm.
>Xem sách trên Google Docs hoặc tải về tệp PDF phần 2.
Nguyễn Quốc Vĩ dịch
Nguồn: http://ethongluan.org
Ngày lưu: 29/01/2012
_________________
Bài viết liên quan:
Tải về tủ sách dân chủ (hồi ký, chính luận, tài liệu PDF...)
Giới thiệu hồi ký "Hồi Ức và Suy Nghĩ" của Trần Quang Cơ
Bên Thắng Cuộc - Huy Đức (tải về PDF và PRC)
ÐCSVN qua những biến động trong phong trào CS Quốc Tế
Tổ Quốc Ăn Năn (Nguyễn Gia Kiểng)
Đăng nhận xét